Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2011

THẰNG TOÀN ( 3 )

Bấy nhiêu năm rồi, vẫn nhớ ! Lính trong tiểu đội làm gì đều biết cả, mình không làm căng, nhưng cũng phải nhắc nhở anh em cẩn thận vì đã có vài ông trong Trung đoàn phải đi viện điều trị bệnh lậu. Chứ chuyện yêu cấm cũng chả được, trời đất sinh ra trai, gái là để cho họ yêu nhau, nó tự nhiên như thở mà, bắt họ tu mãi sao được, chân chính nỗi gì ?
Chuyện yêu đương của anh em đơn vị cũng đủ màu, đủ sắc. Có mối tình rắc rối đầy phiền toái đấy nhưng cũng có những mối tình sâu nặng lắm.
……
Nhớ Toàn, lại nhớ chuyện cái bao tải.
Ngày mới giải phóng ở làng Triều Sơn Đông chẳng nhà nào có nhà cầu, lính mình trên rừng xuống không biết giải quyết đầu ra thế nào, bí lắm ! Sáng ra để ý mới biết, dân Triều Sơn Đông giải quyết chuyện này đều trên con sông Hương thơ mộng xanh mát ấy. Lạ là ăn uống, tắm giặt tất tật đều trên dòng sông đó bao năm nay mà chưa thấy bệnh dịch gì. Nói chuyện, thuyết phục dân thì họ nói thế, nhưng không sớm thì muộn việc ăn uống và thải cùng trên một dòng nước như thế cũng có ngày bệnh dịch nó đến. Đại đội thấy vậy, tổ chức cho anh em vận động các nhà làm cầu tiêu. Dân vùng mới giải phóng nể bộ đội lắm, chẳng cần vận động gì nhiều, họ làm ngay. Cách làm cầu tiêu vẫn theo truyền thống của bộ đội trên rừng, là đào hố, lát cây cây que chừa ra một lỗ vừa tầm xạ kích, rồi trải lá lấp đất lên. Nhưng lá cây ở đồng bằng không sẵn như trên rừng, đang bí thì Toàn lấy đâu được cái bao tải to mang về, tốt rồi ! Bọn mình hoàn thiện công trình một cách chóng vánh, không chỉ tốt mà còn đậm tính mỹ thuật nữa.
Chiều đến, nghe bên nhà chị Mướp quát mắng con ầm ĩ, mình chạy sang thấy con Ánh ngồi thu lu trong góc nhà mặt lì ra chịu đựng. Hỏi chị Mướp thì biết cái bao tải phơi ngoài bờ dậu sáng ngày không cánh mà bay, con Ánh ở nhà để xảy chuyện nên bị mắng. Mình ngờ ngờ cái bao tải của Toàn, quay về hỏi nó, nó thừa nhận đã lấy ở bờ rào nhà chị Mướp, nhưng nó bảo : “ Con Ánh nó biết ! “
Thế là rõ ! Mình chạy sang nhà chị Mướp :” Chị ơi ! Thằng Toàn nó không biết là bao tải của chị, nó lỡ lấy, chị đừng mắng Ánh nữa “ .
Chị Mướp dịu lại thì con Ánh oà khóc, khóc nấc nghẹn . Mình ngồi xuống quàng ôm vai nó dỗ dành cho đến khi tiếng nấc lim đi. Ra bàn nước mình nói với chị Mướp : “ Em xin lỗi chị ! Mai em cho anh em mua lại cho chị “.
Chị Mướp bảo:” không cần phải thế, các chú cần cứ lấy dùng chị không tiếc, chỉ giận con Ánh trông nhà mà ham chơi “
Mâm cơm trên chiếu ở trái nhà đã nguội lạnh, mấy cọng rau lang luộc đen tím lại rồi mà lũ trẻ vẫn chưa dám ngồi ăn. Cơm chỉ có rau lang và mắm ruốc, nhìn mâm cơm mà não ruột, biết làm sao được, chồng là phản động đang đi cải tạo, một mình chị lo 6 miệng ăn trong lúc này là vô cùng khó khăn. Năm đứa trẻ, đứa lớn mới 14 tuổi, đứa bé chưa đầy năm, không biết chị xoay sở ra sao để sống ?
_ Thôi ! Chị cho các cháu ăn cơm đi, nguội hết cả rồi. Còn Quang, sang ăn cơm với các chú.
Thằng bé bám lấy cổ mình đòi đi ngay….Từ đấy thằng Quang không rời mình nữa, nó nhập vào tiểu đội mình luôn. Thế là bộ ba tụi mình hình thành từ đó, chị Mướp có muốn tìm con chỉ việc tìm mình hay Toàn là thấy. Tổ tam tam tụi mình thường ngủ ngoài hiên nhà, giăng màn một đầu vào hàng cột hiên, một đầu buộc vào khẩu DK82. Một lần, sáng dậy gỡ màn, lúng túng thế nào mình và Toàn làm đổ khẩu DK, thằng Quang khóc ré lên. Hai thằng cuống quýt bế nó chạy sang nhà quân y cầu cứu. Chân nó tím bầm, kiểm tra thấy xương không sứt mẻ gì, thật may ! Từ đấy mình và Toàn càng thương thằng bé, đi đâu cũng cho theo.
Mình trở nên thân thiết với mọi người trong nhà chị Mướp, mỗi lần sang chơi, Ánh, Rạng, Quang, Quyền, lũ trẻ xúm lại ríu rít đủ chuyện làm mình nguôi đi nỗi nhớ nhà. Nhưng những ngày ở Triều Sơn Đông không nhiều, lính mà ! Mình lại đi, lại rong ruổi đến những vùng đất mới.
Đại đội nhận pháo 57 ra Cửa Thuận, đưa pháo lên cồn cát làm trận địa chĩa ra biển. Sống bên kia Phá Tam Giang cùng ngư dân được ăn nhiều cá nhưng rau ít và cực hơn. Nước ăn thì đủ nhưng nước tắm thì phải tằn tiện, cát trên cồn, cát trong làng, đi đâu cũng gặp cát.
Ở chưa ấm chỗ đã có dân Triều Sơn Đông sang thăm. “ Đi dân nhớ, ở dân thương” mà, nghe oai vậy chứ toàn các O thôi. Bốn, năm O lận, người hộp sữa, người chục trứng, quà bánh tíu tít. Mới biết lính mình đa tình thật, chuyện O Huê độ nọ mới chỉ là phần nổi. Trong đoàn có cả Ánh, tất nhiên là nó thăm mình và Toàn. Quà Ánh mang theo là chục trứng gà gói trong chiếc khăn tay, còn hộp sữa ông thọ, Ánh bảo của O Hoa gừi. Bất ngờ quá ! O Hoa này rất ít tiếp xúc với lính, mình hay sang nhà chơi với ông bố O vì mê cái xe 67 của ổng, thỉnh thoảng cũng có đôi câu chuyện nói với O. Thấy O trầm tính vẻ kín đáo mình cũng chẳng dám chuyện nhiều, vậy mà hôm nay có quà O gửi, làm mình cũng sướng lâng.
Ánh đi thế này chắc phải trốn mẹ rồi, tuổi 14 chớm kệp kê, nửa người lớn, nửa trẻ con theo các đàn chị trong xóm đi thăm lính chắc cũng muốn làm người lớn đây. Nhưng đến nơi thì các O, các chị đã có mục tiêu, họ đi đằng họ, ở trận địa chỉ còn lại Ánh với tụi mình. Ba chú cháu chuyện trò và ngắm biển suốt một chiều. Nhiều lúc thấy Ánh như một thiếu nữ, buồn dịu lặng lẽ, ưu tư rất Huế, hẳn trong ưu tư ấy cũng nhiều ước mộng.
Nhìn gương mặt sáng tươi và làn tóc hoe vàng vì nắng của Ánh, mình nghĩ khổ trước sẽ được sướng sau thôi. Cô bé lọ lem này không lâu nữa sẽ trở thành nàng công chúa, một cuộc sống tươi đẹp hanh phúc sẽ đền đáp cho nó, cho những vất vả hôm nay phải chịu. Mình luôn tin thế, tin số phân Ánh sẽ được như những gì nó ước mơ..
Năm 2003 mình trở lại Huế, về Triều Sơn Đông thăm lại mọi người. Ngôi nhà nhỏ ven sông của chị Mướp còn đó mà thiếu vắng bóng người.
Ánh không còn nữa, em đã xa rồi ! không có hoàng tử nào đón em trong cuộc đời này cả. Chỉ có tai ương, nghèo khó bủa vây em, rồi cuốn em đi mãi… Xót xa, mình thắp nén nhang cho Ánh, cầu cho em, một kiếp người ngắn ngủi cơ cực mãi được thanh thản nơi chín suối.
Căn nhà chị Mướp vẫn như xưa, trái nhà quay ra sông được thằng Quyền cơi ra làm quán bán tạp hoá qua ngày. Ở lại Huế chỉ có Quyền, Rạng và con bé út, chị Mướp theo thằng Quang lên Đà Lạt làm vườn. Nhìn cảnh nhà thì biết cái nghèo còn đó.
Ở lại ăn cơm với Quyền, Rạng trong căn nhà cũ, ngó nhìn tấm bằng bà mẹ Việt Nam Anh Hùng của bà Ngoại chúng nó treo trên vách, nghĩ mà đau, đau cho kiếp sọc dưa ở đời.
Năm ngoái cùng lão Quang, lão Chiến về lại Triều Sơn Đông, chỉ gặp Quyền và bé út. Cái Rạng lại bỏ Huế, mấy mẹ con kéo nhau lên Đà Lạt bán bánh dạo ngoài đường cho du khách.

Không có nhận xét nào: